“Ôi, dĩ nhiên Malfoy thì biết chứ,” Harry nói với Ron và Hermione, hai đứa này cứ tiếp tục chính sách mới của tụi nó là giả điếc mỗi khi Harry nhắc tới lý thuyết Malfoy-là-một-Tử-thần-thực-tử.
Harry đã lo lắng không biết cụ Dumbledore có từ đâu đó trở về đúng hẹn cho buổi học tối thứ hai không, nhưng bởi vì chẳng nhận được thông báo nào hoãn lại, nên nó tự trình diện trước văn phòng cụ Dumbledore vào lúc tám giờ đúng, gõ cửa, và được mời vào. Kia cụ Dumbledore ngồi đó, trông mệt mỏi khác thường; bàn tay của cụ vẫn cháy khô đen đúa như lâu nay, nhưng cụ mỉm cười khi ra dấu cho Harry ngồi xuống. Cái chậu tưởng Ký lại được đặt trên bàn, hắt những đốm sáng óng ánh bạc lên trần.
“Con đã khá bận rộn trong thời gian thầy đi vắng,” cụ Dumbledore nói. “Ta tin là con đã chứng kiến tai nạn của Katie.”
“Dạ, thưa thầy. Bạn ấy sao rồi ạ?”
“Vẫn chưa được khỏe lắm, mặc dù trò ấy khá may mắn. Trò ấy dường như chỉ chạm nhẹ vào xâu chuỗi với một diện tích da rất nhỏ bị tiếp xúc; có một cái lỗ nhỏ xíu trên găng tay trò ấy. Nếu trò ấy mà đeo xâu chuỗi ấy vô, thậm chí nếu trò ấy cầm xâu chuỗi mà không đeo găng tay, thì trò ấy đã chết rồi, có thể ngay lập tức. May thay giáo sư Snape đã hành động kịp thời để ngăn chặn không cho bùa ếm đó phát tán nhanh chóng...”
“Sao lại ông ấy?” Harry hỏi ngay. “Sao không phải là bà Pomfrey?”
“Láo xược,” một giọng nói nhỏ vang lên từ một trong những bức chân dung trên tường, và cụ Phineas Nigellus Black, ông cố tổ của chú Sirius, ngóc đầu lên khỏi hai cánh tay, hình như vẫn được cụ coi như cái gối kê đầu để ngủ. “Ta không đời nào cho phép một học sinh hỏi vặn vẹo trong trường Hogwarts thời mà ta còn điều hành.”
“Vâng, cám ơn cụ Phineas,” cụ Dumbledore dỗ yên. “Giáo sư Snape biết nhiều hơn bà Pomfrey về Nghệ thuật hắc ám, Harry à. Dù sao đi nữa thì nhân viên bệnh viện Thánh Mungo đang gửi tường trình hàng giờ cho thầy, và thầy hy cọng Katie sẽ sớm bình phục hoàn toàn.”
“Thưa thầy, thầy đi đâu hồi cuối tuần rồi ạ?” Harry hỏi, bất chấp một cảm giác mạnh mẽ là có thể nó đang liều mạng, một cảm giác dường như được cụ Phineas Nigellus chia sẻ, cụ huýt gió khe khẽ.
“Bây giờ thì thầy không tiện nói,” cụ Dumbledore nói. “Tuy nhiên, khi nào đúng lúc thì thầy sẽ nói cho con biết.”
“Thầy sẽ nói hả?” Harry hấp tấp nói.
“Ừ, thầy định vậy,” cụ Dumbledore nói, vừa rút trong túi áo ra một cái chai mới chứa những ký ức lóng lánh bạc và mở nút chai bằng một cái gõ của cây đũa phép.
“Thưa thầy,” Harry lại ngập ngừng nói, “con đã gặp lão Mundungus ở Hogsmeade.”
“À phải, thầy đã biết về việc Mundungus nhẹ tay nẫng tài sản thừa kế của con,” cụ Dumbledore nói, hơi cau mày. “Lão ta đã lặn mất tiêu từ lúc con bắt quả tang lão bên ngoài quán Ba Cây chổi; Thầy nghĩ lão sợ giáp mặt thầy. Tuy nhiên, con có thể yên tâm là lão sẽ không thể nào ăn cắp thêm bất cứ cái gì nữa trong tài sản trước đây của chú Sirius.”
“Lão già lai ghẻ lở ấy ăn cắp của gia truyền của dòng họ Black à?” Cụ Phineas Nigellus nói, cụ điên tiết lên, và chuồn ra khỏi cái khung tranh của mình, chắc chắn là để về thăm cái chân dung của cụ ở số mười hai đường Grimmauld.
“Thưa thầy,” Harry nói, sau một khoảng ngắn nín thinh. “Giáo sư McGonagall có nói với thầy điều con đã thưa với cô ấy sau khi Katie bị thương không? Về Draco Malfoy ấy ạ?”
“Có, cô ấy có nói với thầy về sự nghi ngờ của con,” Cụ Dumbledore nói.
“Và thầy có...?”
“Thầy sẽ tiến hành những biện pháp thích đáng để điều tra bất cứ ai có nhúng tay vào tai nạn của Katie,” cụ Dumbledore nói. “Nhưng điều thầy bận tâm lúc này, Harry à, là bài học của chúng ta.”
Harry cảm thấy hơi bực mình về chuyện này: nếu buổi học của thầy trò nó quan trọng như thế, tại sao buổi học thứ nhì lại cách xa buổi học thứ nhất dữ vậy? Tuy nhiên, nó không nói gì thêm về Draco Malfoy, mà chỉ ngồi nhìn khi cụ Dumbledore rót cái ký ức mới vào trong cái Tưởng Ký, và bưng cái chậu đá giữa hai bàn tay với những ngón tay rất dài, cụ bắt đầu xoay cái chậu đá một lần nữa.
“Thầy biết chắc con vẫn nhớ rằng chúng ta đã rời câu chuyện về thuở ban đầu của Chúa tể Voldermort ở chỗ chàng Muggle trẻ tuổi đẹp trai Tom Riddle đã bỏ rơi cô vợ phù thủy Merope, để trở về nhà mình ở làng Hangleton Nhỏ. Merope bị bỏ lại một mình ở London, bụng mang dạ chửa đứa bé sau này sẽ trở thành Chúa tể Voldermort.”
“Thưa thầy, làm sao thầy biết là cô ấy ở London?”
“Bởi vì có chứng cớ của ông Caractacus Burke,” cụ Dumbledore nói, “ông này, do một ngẫu nhiên kỳ lạ, đã giúp thành lập chính cái tiệm xuất xứ của xâu chuỗi mà chúng ta vừa thảo luận.”
Cụ sàng đãi nội dung của cái Tưởng Ký như Harry đã từng thấy cụ sàng đãi trước đây, rất giống cách những người thợ mỏ vàng sàng đãi quặng để tìm vàng. Dâng lên trên cái khối óng ánh bạc đang xoay tít là một người đàn ông từ từ xoay vòng vòng trong cái Tưởng Ký, ban đầu bạc trắng như ma nhưng rắn chắc hơn dần, với một mái tóc phủ kín cả mắt.
“Vâng, chúng tôi có được nó trong một trường hợp lạ lùng. Một phù thủy trẻ đem nó đến trước lễ Noel, ôi, cách đây nhiều năm rồi. Cô ta nói cô ta cần vàng ghê lắm, chà, điều đó rất hiển nhiên. Cô ta ăn mặc rách rưới và coi bộ chẳng bao lâu nữa... sẽ có em bé. Cô ta nói sợi dây chuyền là của dòng họ Slytherin. Ối, lúc nào tôi cũng nghe những câu chuyện tương tự như vậy, “Ôi, đây là di vật của dòng họ Merlin, đây là cái bình trà cưng của ngài.” Nhưng khi tôi nhìn kỹ nó, thì nó có dấu hiệu của Ngài Slytherin hẳn hoi, và chỉ cần vài phép bùa chú đơn giản là tôi biết được đồ thật. Dĩ nhiên điều đó khiến nó vô giá. Cô ta lại dường như không biết chút gì giá cả của vật đó. Vui vẻ mà nhận mười Galleon đánh đổi vật đó. Món hời nhất mà tôi từng mua!”
Cụ Dumbledore lắc cái chậu Tưởng Ký một cái thiệt mạnh và ông Caractacus Burke lặn trở xuống mớ ký ức xoay tít, chỗ mà ông ta đã từ đó hiện ra.
“Ông ta chỉ trả cô ấy mười Galleon thôi à?” Harry phẫn nộ nói.
“Ông Caractacus Burke không nổi tiếng lắm về tính hào phóng,” cụ Dumbledore nói. “Vậy là chúng ta biết, lúc gần sanh, Merope đã một mình ở London và cần vàng ghê gớm, cần đến nỗi phải bán đi tài sản có giá trị duy nhất, sợi dây chuyền vốn là một trong những di sản gia truyền quý báu của Marvolo.”
“Nhưng cô ta có thể phù phép mà!” Harry sốt ruột nói. “Cô ta có thể tự kiếm đồ ăn và mọi thứ cho mình bằng Pháp thuật, đúng không ạ?”
“À,” cụ Dumbledore nói, “có lẽ cô ta có thể làm vậy. Nhưng thầy tin – và một lần nữa thầy chỉ đoán mà thôi, nhưng thầy tin là thầy đúng – rằng khi bị chồng bỏ, Merope đã thôi dùng Pháp thuật. Thầy nghĩ cô ta không muốn là phù thủy nữa. Dĩ nhiên, cũng có thể tình yêu không được đáp lại của cô ta và nỗi tuyệt vọng kèm theo đã làm cạn kiệt sức mạnh của cô; điều đó có thể xảy ra lắm. Đằng nào đi nữa, như con sắp sửa thấy đây, Merope từ chối giơ cây đũa phép lên, cho dù để cứu chính mạng sống của mình.”
“Cô ta thậm chí không sống vì đứa con mình sao?”
Cụ Dumbledore nhướn chân mày lên, “Con còn có thể cảm thấy thương xót Chúa tể Voldermort ư?”
“Không,” Harry nói nhanh, “nhưng cô ta có thể lựa chọn, đúng không, chẳng giống như mẹ của con....”
“Mẹ của con cũng có quyền lựa chọn,” cụ Dumbledore nhẹ nhàng nói. “Đúng vậy, Merope Riddle đã chọn cái chết bất chấp đứa con trai đang cần đến cô ta, nhưng đừng phán xét cô ta khắc nghiệt quá, Harry à. Cô ta đã suy yếu đi rất nhiều vì nỗi đau khổ kéo dài và cô ta chưa bao giờ có được lòng can đảm như mẹ con. Và bây giờ nếu con chịu đứng yên...”
“Chúng ta sẽ đi đâu?” Harry hỏi, khi cụ Dumbledore đến đứng cạnh nó trước cái bàn.
“Lần này,” cụ Dumbledore nói, “chúng ta sẽ đi vào ký ức của thầy. Thầy nghĩ con sẽ thấy ký ức của thầy phong phú, chi tiết và chính xác mỹ mãn. Mời con đi trước, Harry...”
Harry cúi xuống cái Tưởng Ký; mặt nó chạm vào bề mặt mát lạnh của ký ức và rồi nó rơi xuyên qua bóng tối một lần nữa... Vài giây sau, chân nó chạm mặt đất cứng; nó mwor mắt ra và thấy nó với cụ Dumbledore đang đứng trên một đường phố London cổ kính và khá náo nhiệt.
“Thầy kia kìa,” cụ Dumbledore hớn hở nói, vừa chỉ về phía trước nơi một dáng người cao đang băng qua đường trước chiếc xe ngựa kéo chở sữa.
Chòm râu và mái tóc dài của chàng trai Albus Dumbledore trẻ tuổi này màu nâu vàng. Sau khi qua tới lề đường mà hai thầy trò nó đang đứng, cậu ta rảo bước đi dọc theo lề đường, thu hút những cái liếc mắt tò mò nhờ bộ đồ nhung màu mận được may cắt đỏm dáng mà cậu ta đang mặc.
“Thưa thầy bộ đồ đẹp quá,” Harry buột miệng nói không kềm lại được, nhưng cụ Dumbledore chỉ chắt lưỡi khoái trá đi theo hình bóng trẻ tuổi của mình cách một khoảng ngắn, cuối cùng ngàng qua hai cánh cổng sắt để vào một khoảnh sân trống trải phía trước một tòa nhà vuông vức khá kiên cố có hàng rào song sắt cao bao quanh. Thầy Dumbledore trẻ leo lên những bậc thềm dẫn đến cửa chính và gõ một lần. Chỉ một hai tích tác sau, cánh cửa được một cô gái chếch nhác đeo tạp dề mở ra.
“Chào cô. Tôi có hẹn với bà Cole, người mà theo tôi nghĩ là quản lý ở đây?”
“À,” cô gái nói, trông rõ vẻ bối rối vì bộ dnagj kỳ cục của thầy Dumbledore. “Ưm... chỉ chút xíu... BÀ COLE!” Cô ta ngoái đầu ra sau rống lên.
Harry nghe một giọng nói ở xa quát to điều gì đó để đáp trả. Cô gái quay lại thầy Dumbledore nói: “Mời vào, bà ấy ra ngay.”
Thầy Dumbledore trẻ bước vào một hành lang lát gạch đen trắng; toàn cảnh nơi ấy trông sơ sài nhưng sạch như li như lau. Harry và cụ Dumbledore đi theo. Trước khi cánh cửa đóng lại sau lưng họ, một người đàn bà da bọc xương vẻ mặt phiền muộn lật đật đi về phía họ. Bà ta có một gương mặt sắc cạnh có vẻ lo âu nhiều hơn là ác độc, bà ta vừa đi về phía thầy Dumbledore vừa ngoái đầu ra sau nói với một người giúp việc đeo tạp dề khác.
“...và đem i-ốt lên lầu cho Martha, Billy Stubbs cứ gỡ ghẻ của nó và Eric Whalley thì rỉ mủ ra khắp khăn trải giường – bệnh trái rạ trên hết mọi thứ,” bà ta không nói với người nào cụ thể, và rồi bà gặp phải thầy Dumbledore và bà đứng lặng người giữa lối đi, có vẻ kinh ngạc như thể thấy một con hươu cao cổ vừa mới bước qua ngưỡng cửa nhà bà.
“Chào bà,” thầy Dumbledore nói, giơ một bàn tay ra. Bà Cole chỉ há hốc mồm.
“Tên tôi là Albus Dumbledore. Tôi đã gửi cho bà một lá thư xin được gặp và bà đã tử tế mời tôi đến đây vào ngày hôm nay.”
Bà Cole chớp mắt. Dường như quyết định rằng thầy Dumbledore không phải là một ảo giác, bà nói giọng yếu ớt, “À phải. Thôi... thôi thì... Anh nên đi vào phòng của tôi. Vâng.”
Bà dẫn thầy Dumbledore vào một căn phòng nhỏ có vẻ như nửa là phòng khách nửa là phòng làm việc. Nó cũng sơ sài như hành lang và bàn này ghế nọ không đồng bộ. Bà mời thầy Dumbledore ngồi xuống một cái ghế ọp ẹp và tự bà cũng ngồi xuống phía sau một cái bàn làm việc bừa bộn lộn xộn, trố mắt nhìn thầy lo lắng.
“Tôi đến đây, như tôi đã viết cho bà trong lá thư, để thảo luận về Tom Riddle và thu xếp tương lai cho cậu bé,” thầy Dumbledore nói.
“Ông là thân nhân của nó à?” Bà Cole hỏi.
“Không, tôi là một giáo viên,” thầy Dumbledore nói. “Tôi đến đây để đề nghị Tom vào học ở trường của tôi.”
“Vậy trường của ông là trường gì?”
“Tên trường là Hogwarts,” thầy Dumbledore nói.
“Và vì sao ông lại quan tâm đến Tom?”
“Chúng tôi tin là cậu bé có những phẩm chất mà chúng tôi đang tìm kiếm.”
“Có phải ý ông nói là nó xin được học bổng? Nó làm sao mà xin được? Nó chưa bao giờ nộp đơn xin cái nào.”
“À, tên của cậu bé đã được ghi sẵn trong trường từ khi mới được sinh ra...”
“Ai ghi danh cho nó? Cha mẹ nó à?”
Chắc chắn bà Cole là một người đàn bà sắc sảo phiền phức. Dường như thầy Dumbledore cũng nghĩ như vậy, bởi vì giwof đây Harry thấy thầy rút nhẹ cây đũa phép ra khỏi túi của bộ đồ nhung đồng thời cầm lên một tờ giấy trắng bóc trên bàn của bà Cole.
“Đây,” thầy Dumbledore nói, vẫy cây đũa phép một cái khi thầy đưa miếng giấy cho bà Cole, “tôi nghĩ cái này sẽ khiến cho mọi thứ được rõ ràng.”
Mắt bà Cole lé đi rồi ngay lại khi bà chăm chú nhìn vào tờ giấy trắng một hồi.
“Có vẻ hoàn toàn hợp lệ,” bà nói vẻ yên tâm, đưa lại tờ giấy. Kế đến bà ngó thấy một chai rượu gin và hai cái ly mà chắc chắn là không hề tồn tại trước đó vài giây.
“Ơ... cho phép tôi được mời anh một ly rượu gin nhé?” bà nói bằng một giọng cực kỳ tao nhã.
“Cám ơn bà nhiều lắm,” thầy Dumbledore nói, tươi cười.
Bà Cole chẳng mấy chốc đã tỏ rõ bà không phải tay mơ về chuyện uống rượu gin. Rót cho cả hai người những ly rượu đầy ắp, bà uống một hơi cạn ly của bà. Chép môi sảng khaois một cách thẳng thắn, bà mỉm cười với thầy Dumbledore lần đầu tiên, và thầy không chần chừ gì mà không tận dụng ngay cơ hội thuận lợi này.
“Tôi đang tự hỏi liệu bà có thể kể cho tôi nghe tiểu sử của tom Riddle không? Tôi nghĩ cấu ấy chào đời ở viện mồ côi này thì phải?”
“Đúng vậy,” bà Cole nói, tự rót thêm rượu gin cho mình. “Tôi nhớ chuyện đó rõ như bất cứ chuyện nào khác, bởi vì tôi cũng chỉ mới bắt đầu làm việc ở đây vào lúc đo. Đêm giao thừa lạnh thấu xương, anh biết đấy, tuyết rơi dữ lắm. Đêm quái quỉ. Và cô gái ấy, không lớn tuổi hơn tôi lắm vào lúc đó, lê lết bước lên bực thềm cửa chính. Ôi, cô ta chẳng phải người đầu tiên. Chúng tôi đưa cô vào, và trong vòng một giờ đồng hồ sau cô ấy sanh ra đứa bé.”
Bà Cole gật gù một cách đầy ấn tượng và làm thêm một ngụm gin thiệt to nữa.
“Cô ấy có nói điều gì trước khi chết không?” Thầy Dumbledore hỏi. “Điều gì về cha của đứa bé chẳng hạn?”
“À, có đấy, như vẫn thường xảy ra,” bà Cole nói, lúc này bà ta dường như đang cao hứng, với ly rượu gin trong tay và một thính giả háo hức muốn nghe bà kể chuyện. “Tôi nhớ cô ấy nói với tôi: “tôi hy vọng bé giống cha bé” và tôi không nói dối đâu nhé, cô ấy hy vọng như thế là đúng, bởi vì cô ấy xấu ơi là xấu – và rồi cô ấy bảo tôi đặt tên cho bé là Tom, theo tên ba của bé, và Marvolo, theo tên bố cô ta –vâng, tôi biết, tên buồn cười nhỉ? Chúng tôi đã thắc mắc phải chăng cô ấy đến từ một gánh xiếc – và cô ấy nói họ của đứa bé kia là Riddle. Và cô ấy chết ngay sau đó, không thốt thêm lời nào.”
“Thế là chúng tôi đặt tên cho đứa bé ý như lời cô ấy dặn, dường như điều đó quan trọng đối với cô gái tội nghiệp ấy, nhưng chẳng thấy Tom hay Marvolo hay bất cứ Riddle nào đó đến đây tìm đứa bé, cũng chẳng có thân nhân nào cả, thành ra đứa bé ở lại viện mồ côi, và đã ở đây từ bấy đến giờ.”
Gần như lơ đãng, bà Cole lại tự chuốc cho mình một ly rượu gin đầy ắp khác. Hai đốm hồng hồng đã hiện trên đôi gò má cao của bà. Rồi bà nói, “Nó là một thằng bé lạ lắm.”
“Vâng,” thầy Dumbledore nói. “Tôi tin là cậu ấy có thể khác thường.”
“Hồi còn sơ sinh nó cũng đã lạ rồi. Nó hầu như không khóc bao giờ, ông hiểu chứ. Và rồi, khi lớn thêm một tí, nó... kỳ quái lắm.”
“Kỳ quái như thế nào?” Thầy Dumbledore nhã nhặn hỏi.
“Chà, nó...”
Nhưng bà Cole chợt ghìm lại, và ánh mắt dò hỏi qua ly rượu gin của bà về phía thầy Dumbledore không mơ hồ hay vớ vẩn chút nào.
“Ông nói là chắc chắn nó được nhận vô trường của ông hả?”
“Chắc chắn,” thầy Dumbledore nói.
“Và không có điều gì tôi nói ra có thể thay đổi điều đó chứ?”
“Không,” thaayd Dumbledore nói.
“Dù gì đi nữa ông cũng đem thằng bé đi chứ?”
“Dù gì đi nữa,” thầy Dumbledore trang nghiêm lặp lại.
Bà Cole liếc thầy một cái như thể cân nhắc xem có thể tin được thầy hay không. Dường như bà quyết định là có thể tin, bởi vì bỗng nhiên bà nói thiệt nhanh, “Nó khiến những đứa trẻ khác sợ chết khiếp.”
“Có phải bà muốn nói cậu ấy là kẻ hiếp đáp trẻ khác?” thầy Dumbledore hỏi.
“Tôi nghĩ chắc là nó có bắt nạt,” bà Cole nói, hơi cau mày, “nhưng rất khó mà bắt nó tại trận. Có những chuyện ngẫu nhiên... những chuyện quái quỉ...”
Thầy Dumbledore không thúc giục bà Cole nói, nhưng Harry có thể thấy là thầy đang khoái nghe. Bà ta lại hớp thêm một ngụm rượu gin nữa và đôi má hồng của bà ta càng hồng ửng lên.
“Con thỏ của Billy Stubbs... Chà, Tom nói là nó không làm chuyện đó và tôi thấy nó không thể nào làm nổi chuyện đó, nhưng dù có như thế, thì thỏ đâu có tự mình treo lên xà ngang hả?”
“Không, tôi không nghĩ vậy,” thầy Dumbledore khẽ nói.
“Nhưng tôi mà biết nó làm cách nào mà leo được lên xà để làm chuyện đó thì cho tôi chết toi đi cho rồi. Tôi chỉ biết là nó và Billy đã cãi nhau ngày hôm trước. Và rồi...” Bà Cole lại ực thêm một hớp rượu gin nữa, lẫn này lại để nhểu một tí rượu xuống cằm, “...trong một dịp đi dã ngoại mùa hè... chúng tôi đưa bọn trẻ đi chơi ở thôn quê hay bờ biển, anh biết đấy, mỗi năm một lần... Chà, từ chuyến đi đó về sau Amy Benson và Dennis cứ dở tỉnh dở ngây, điều duy nhất mà chúng tôi có thể moi được từ hai đứa nó là tụi nó đã đi vô một cái hang với Tom Riddle. Có thể là tụi nó chỉ đi thám hiểm, nhưng tôi tin chắc là có chuyện gì đó đã xảy ra trong hang. Và, ôi thôi, có rất nhiều chuyện, những chuyện quái gở...”
Bà ngó chừng thầy Dumbledore một lần nữa, và mặc dù hai má bà đã đỏ bừng, cái nhìn chòng chọc của bà vẫn nghiêm chỉnh. “Tôi cho là sẽ không có nhiều người tiếc nuối khi thấy nó ra đi đâu.”
“Tôi chắc bà cũng hiểu rằng chúng tôi sẽ không giữ luôn cậu bé?” thầy Dumbledore nói, “Cậu bé sẽ trở về đây, ít nhất thì cũng vào mỗi mùa hè.”
“Ồ, thôi cũng được, thế còn hơn bị que sắt rỉ nện vô mũi,” bà Cole nói, hơi bị nấc cục. Bà đứng lên, và Harry rất có ấn tượng khi thấy bà hết sức vững vàng, mặc dù chai rwouj gin giwof đây đã vơi hết hai phần ba. “Tôi đoán là anh muốn gặp nó?”
“Rất muốn,” thầy Dumbledore nói, và thầy cũng đứng dậy.
Bà Cole dẫn thầy đi ra khỏi văn phòng và đi lên một cầu thang bằng đá, vừa ra lệnh, vừa khiển trách những người giúp việc và lũ trẻ con khi bà đi ngang qua họ. Harry thấy tất cả lũ trẻ mồ côi đều mặc cùng một loại áo dài xám xịt. Trông chúng cũng được chăm sóc tương đối tốt, nhưng không thể chối rằng đó là một nơi khắc nghiệt cho trẻ con lớn lên.
“Chúng ta đến nơi rồi,” bà Cole nói, khi họ quẹo qua chân cầu thang của tầng thứ hai và dừng lại bên ngoài cánh cửa thứ nhất trong một hành lang dài. Bà ta gõ lên cửa hai lần rồi bước vô phòng.
“Tom à? Con có khách. Đây là ông Dumbledoreberton... Xin lỗi, Dunderbore. Ông ấy đến để nói với con... Thôi, ta sẽ để cho ông ấy nói.”
Harry và hai Dumbledore đi vô phòng, và bà Cole đóng cửa phòng lại sau lưng họ. Đó là một căn phòng nhỏ trơ trụi hầu như không có gì ngoại trừ một cái tủ áo cũ và một cái khung giường sắt. Một cậu bé đang ngồi trên một đống mền xám, chân duỗi thẳng ra phía trước, tay cầm một cuốn sách.
Chẳng có dấu vết gì của dòng họ Gaunt trên gương mặt của Tom Riddle. Merope đã đạt được ước nguyện lúc lâm chung: cậu bé là hình ảnh thu nhỏ của người cha đẹp trai, khá cao so với tuổi mười một, tóc đen và làn da tai tái. Mắt cậu bé hơi nheo lại khi ngắm cái bộ dạng kỳ quái của thầy Dumbledore. Hai bên im lặng một lúc.
“Chào Tom,” thầy Dumbledore nói, vừa đi tới và giơ tay ra.
Cậu bé do dự, rồi nắm lấy bàn tay người khách, hai người bắt tay nhau. Thầy Dumbledore kéo một cái ghế bằng gỗ cứng đến ngồi bên cạnh Riddle, khiến cho hai người trông hơi giống cảnh một bện nhân và khách thăm trong bệnh viện.
“Tôi là giáo sư Dumbledore.”
“Giáo sư?” Riddle lập lại. Nó tỏ vẻ lo lắng. “Có giống như “bác sĩ” không? Ông đến đây để làm gì? Có phải là bà ấy kêu ông tới khám tôi không?”
Cậu bé chỉ về phía cánh cửa mà bà Cole vừa đóng lại khi bỏ đi.
“Không, không,” thầy Dumbledore mỉm cười, nói.
“Tôi không tin ông,” Riddle nói. “Bà ấy muốn để tôi khám bệnh, đúng không? Nói thiệt đi!”
Cậu bé nói ba tiếng cuối với một sức mạnh dứt khoát gần như khích động. Đó là một mệnh lệnh và nó vang lên như thể trước đây cậu bé đã ra lệnh như vậy nhiều lần. Mắt cậu bé mở to và cậu nhìn trừng trừng thầy Dumbledore, thầy không đáp lại mà chỉ tiếp tục mỉm cười thoải mái. Vài giây sau Riddle ngưng chiếu tướng, mặc dù cậu trông có vẻ lo lắng hơn.
“Ông là ai?”
“Tôi vừa nói với em. Tôi là giáo sư Dumbledore và tôi làm việc ở một trường học có tên là Hogwarts. Tôi đến đây để mời em về học ở trường tôi – là trường mới của em, nếu em muốn học ở đó.”
Phản ứng của Riddle trước việc này đáng ngạc nhiên nhất. Nó nhảy ra khỏi giường và lùi xa thầy Dumbledore, vẻ mặt giận dữ.
“Ông ddnwgf hòng lừa tôi! Chỗ ông đến là nhà thương điên chứ gì? Giáo sư hả, ừ, dĩ nhiên... Này, tôi không đi đâu, hiểu không? Con mèo già ấy mới là kẻ nên vô nhà thương điên. Tôi không hề làm bất cứ điều gì nhỏ Amy Benson hay Dennis Bishop, và ông có thể hỏi chúng, chúng sẽ kể cho ông nghe!”
“Tôi không đến từ nhà thương điên,” thầy Dumbledore kiên nhẫn nói. “Tôi là một giáo viên và, nếu em ngồi xuống bình tĩnh lại,tôi sẽ kể em nghe về trường Hogwarts. Dĩ nhiên nếu em không muốn đi học ở trường đó thì không ai cưỡng ép em.”
“Họ cứ thử cưỡng ép xem,” Riddle chế nhạo.
“Hogwarts,” thầy Dumbledore nói tiếp, như thể thầy không hề nghe mấy lời vừa rồi của Riddle, “là một trường học dành cho những người có năng khiếu đặc biệt...”
“Tôi không điên!”
“Tôi biết em không điên. Hogwarts không phải là trường học cho người điên. Đó là trường học Pháp thuật.”
Im lặng. Riddle đã đông cứng, mặt nó vô hồn, mắt nó đảo qua đảo lại giữa hai con mắt của Dumbledore, như thể tìm cách bắt quả tang một trong hai con mắt đó nói dối.
“Pháp thuật?” Nó thì thầm lập lại.
“Đúng vậy,” thầy Dumbledore nói.
“Đúng là... đúng là pháp thuật là cái mà tôi có thể làm?”
“Cái em có thể làm là những cái gì?”
“Đủ thứ,” Riddle thì thào. Một nguồn cảm xúc sôi nổi trào dâng lên tới cổ nó, lan đến hai má hõm của nó; trông nó như đang lên cơn sốt. “Tôi có thể khiến đồ vật di chuyển mà không cần phải đụng tới chúng. Tôi có thể khiến thú vật làm những gì tôi muốn chúng làm, mà không cần huấn luyện chúng. Tôi có thể khiến chuyện xui xẻo xảy ra cho người ta nếu họ làm tôi bực mình. Tôi có thể khiến họ đau đớn nếu tôi muốn.”
Hai chân Riddle đang run. Nó té nhào tới trước và lại ngồi dậy trên giường, đăm đăm nhìn hai bàn tay của nó, đầu nó cúi xuống như thể đang cầu nguyện.
“Tôi biết tôi khác người,” nó thì thầm với mấy ngón tay run rẩy của mình. “Tôi biết tôi đặc biệt. Luôn luôn, tôi biết có cái gì đó.”
“Ừ, em hoàn toàn đúng,” thầy Dumbledore nói, thầy không còn mỉn cười nữa mà chăm chú nhìn Riddle. “Em là một pháp sư.”
Riddle ngẩng đầu lên. Mặt nó biến đổi: một niềm vui cuồng nhiệt hiện lên mặt nó, nhưng không hiểu vì sao điều đó không làm cho gương mặt nó đẹp trai hơn, mà ngược lại, nét mặt khéo tạc của nó dường như hung dữ hơn, biểu lộ vẻ tàn bạo hơn.
“Ông cũng là pháp sư hả?”
“Phải, tôi cũng là pháp sư.”
“Chứng minh đi,” Riddle nói ngay, cũng bằng cái giọng ra lệnh mà nó đã dùng khi bảo “nói thiệt đi!”
Thầy Dumbledore nhướn đôi chân mày, “Nếu em chịu đi học ở trường Hogwarts, tôi giao ước...”
“Dĩ nhiên em đồng ý!”
“Vậy thì em phải xưng hô với tôi là “Thưa thầy” hay “Thưa ngài.””
Nét mặt Riddle đanh lại trong một thoáng ngắn ngủi trước khi nó nói với một cái giọng không thể cho là lễ phép được, “Tôi xin lỗi, thưa ngài. Ý em nói là... xin vui lòng, thưa thầy, xin thầy biểu diễn cho em xem...?”
Harry chắc là thầy Dumbledore sẽ phải từ chối, ràng thấy sẽ nói với Riddle rằng sẽ có khối thì giờ cho những cuộc biểu diễn thực hành ở trường Hogwarts, ràng hiện giờ họ đang ở trong một tòa nhà đầy những dân Muggle và vì vậy phải cẩn thận. Nhưng nó hết sức ngạc nhiên thấy thầy Dumbledore rút ra cây đũa phép từ túi áo bên trong của cái áo lớn, chĩa nó vào cái tủ quần áo xập xệ ở góc phòng, và vẫy một cái không có chủ đích.
Cái tủ áo bùng cháy.
Riddle nhảy dựng lên; Harry khó lòng trách nó rú lên trong cơn kinh hoàng và tức giận; tất cả tài sản quí giá nhất của nó hẳn là để ở trong tủ cả. Nhưng vừa đúng lúc Riddle quay lại sừng sộ với thầy Dumbledore, ngọn lửa biến mất, để lại cái tủ áo hoàn toàn nguyên vẹn.
Riddle hết trợn mắt ngó cái tủ lại ngó tới thầy Dumbledore; bỗng nhiên, nó chỉ vào cây đũa phép, vẻ mặt ham hố. “Em có thể kiếm một cây như vậy ở đâu?”
“Đừng sốt ruột,” thầy Dumbledore nói. “Tôi nghĩ có cái gì đó đang tìm cách ra khỏi tủ áo của em.”
Và quả nhiên, có thể nghe được tiếng lục cục yếu ớt vang lên bên trong tủ. Lần đầu tiên Riddle tỏ vẻ hoảng sợ.
“Mở cửa ra,” thầy Dumbledore nói.
Riddle ngập ngừng, rồi băng ngang căn phòng và mở tung cánh cửa tủ áo. Một hộp giấy bồi nhỏ đang lắc lư và kêu lục cục như thể có nhiều con chuột điên mắc bẫy bên trong hộp.
“Đem nó ra,” thầy Dumbledore nói.
Riddle bưng cái hộp tưng tưng ấy xuống. Nó có vẻ mất tinh thần.
“Trong hộp đó có cái gì em không nên giữ lại không?” thầy Dumbledore hỏi.
Riddle ném cho thầy Dumbledore một ánh amwts dài, trong trẻo, đắn đo. “Dạ, thưa thầy, em nghĩ là có.” Cuối cùng nó nói, bằng một giọng nói không biểu cảm lắm.
“Mở nó ra,” thầy Dumbledore nói.
Riddle mở nắp hộp và lấy từng món đồ trong hộp ra đặt lên giường mà không nhìn ngắm chúng. Harry, những tưởng là cái gì đó lý thú lắm, lại thấy một mớ vật dụng thường ngày nho nhỏ: trong mớ đó có một cái đồ chơi trẻ con, một cái vòng bằng bạc, và một cái kèn ooc. Được ra khỏi cái hộp, mớ đồ vật ngừng run rẩy và nằm im trên lớp chăn mỏng.
“Em nên đem trả chúng lại cho chủ của chúng kèm theo lời xin lỗi,” thầy Dumbledore điềm tĩnh nói, vừa cất cây đũa phép trở vô trong túi áo. “Thầy sẽ biết em có làm đúng như vậy hay không. Và em coi chừng: ăn cắp không được tha thứ ở trường Hogwarts đâu.”
Riddle không tỏ ra một chút bối rối nào. Nó vẫn đăm đăm nhìn thầy Dumbledore một cách lạnh lùng và cân nhắc. Cuối cùng nó nói bằng một giọng không âm sắc, “Dạ, thưa thầy.”
“Ở trường Hogwarts,” thầy Dumbledore nói tiếp, “các thầy cô sẽ dạy em không những cách sử dụng Pháp thuật mà cả cách kiềm chế Pháp thuật. Lâu nay em vẫn dùng năng lực của em – thầy chắc là tình cờ thôi – theo cái cách mà ở trường Hogwarts không day và cũng không chấp nhận. Em không phải là người đầu tiên, cũng không phải là người cuối cùng, để cho năng lực huyền bí của mình thoát vòng kiềm tỏa. Nhưng em nên biết là trường Hogwarts có thể đuổi học sinh, và Bộ Pháp thuật... Ừ, có mộ bộ như vậy, sẽ trừng phạt những kẻ vi phạm luật một cách nghiêm khắc. Tất cả pháp sư mới phải chấp nhận tôn trọng luật của chúng ta, khi gia nhập thế giới Pháp thuật.”
“Dạ, thưa thầy,” Riddle lại nói.
Không thể đoán được là Riddle đang nghĩ gì; gương mặt nó vẫn cứ trơ trơ khi nhặt cái kho tàng nho nhỏ những đồ ăn cắp của nó bỏ trở vô cái thùng giấy. Làm xong nó quay sang thầy Dumbledore nói trơ tráo, “Em không có tiền.”
“Điều đó giải quyết dễ thôi,” thầy Dumbledore nói, rút trong túi áo ra một bao tiền bằng da. “Trường Hogwarts có quỹ dành cho những học sinh nào cần trợ giúp để mua sách vở và quần áo. Có thể em phải mua lại sách thần chú cũ và những thứ khác không được mới nguyên, nhưng...”
“Thầy mua sách thần chú ở đâu?” Riddle chen ngang, nó đã nhận túi tiền nặng mà không hề cảm ơn thầy Dumbledore, và bây giờ nó đang kiểm tra đồng Galleon bằng vàng dày.
“Ở Hẻm Xéo,” thầy Dumbledore nói. “Thầy có đây danh mục Sách giáo khoa và học cụ em cần dùng ở trường. Thầy có thể giúp em tìm được mọi thứ...”
“Thầy sẽ đi với em à?” Riddle hỏi, ngước lên nhìn.
“Đương nhiên, nếu em...”
“Em không cần thầy.” Riddle nói. “Em quen tự mình làm mọi chuyện, em luôn đi khắp London một mình. Làm thế nào đi tới Hẻm Xéo... thưa thầy?” Nó thêm hai tiếng cuối khi bắt gặp ánh mắt thầy Dumbledore.
Harry nghĩ thầy Dumbledore sẽ nhất định đòi đi cùng Riddle, nhưng một lần nữa nó bị ngạc nhiên. Thầy Dumbledore đưa Riddle cái phong bì đựng danh sách những thứ cần dùng ở trường, và sau khi hướng dẫn chính xác cho Riddle đường đi từ Viện mồ côi đến Hẻm Xéo, thầy nói, “Em sẽ nhìn thấy nó, mặc dù dân Muggle chung quanh em – tức là những người không có năng lực pháp thuật – không nhìn thấy. Hãy tìm ông Tom – người pha rượu, cũng dễ nhớ vì trùng tên với em...”
Riddle giựt giựt cơ mặt một cách khó chịu như thể cố xua đuổi một con ruồi cà chớn.
“Em không thích cái tên Tom à?”
“Có cả đống người tên Tom,” Riddle lẩm bẩm. Đột nhiên, như thể nó không cách nào nén câu hỏi xuống được nữa, như thể câu hỏi vọt ra bất chấp muốn của nó, nó hỏi: “Ba của em có phải là pháp sư không? Họ nói với em ông ấy cũng tên là Tom Riddle.”
“Thầy e là thầy không biết,” thầy Dumbledore nói, giọng dịu dàng.
“Má em không thể nào có pháp thuật, chứ nếu có thì bà đâu bị chết,” Riddle nói, tự nói với mình hơn là nói với thầy Dumbledore. “Chắc phải là ba. Vậy – khi nào em có đủ đồ đạc –khi nào em đến cái trường Hogwarts đó?”
“Tất cả chi tiết đều có trên trang giấy da thứ hai trong phong bì gửi cho em đó,” thầy Dumbledore nói. “Em sẽ rời Nhà ga Ngã tư vua vào ngày mồng một tháng chín. Vé tàu lửa cũng ở trong phong bì.”
Riddle gật đầu. Thầy Dumbledore đứng dậy và giơ tay ra một lần nữa. Bắt tay thầy, Riddle nói, “em có thể nói chuyện với rắn. EM biết điều này khi tụi em đi dã ngoại ở miền quê. Chúng kiếm em, húyt gió gọi em. Điều đó bình thường đối với một pháp sư không?”
Harry đã thấy là Riddle đã nhịn tới lúc đó mới kể ra năng lực kỳ lạ nhất của mình; nhất định là để gây ấn tượng.
“Điều đó không bình thường,” thầy Dumbledore nói, sau một chút ngập ngừng, “nhưng không phải là chuyện chưa từng nghe nói.”
Giọng thầy bình thường nhưng ánh mắt thầy tò mò dò xét gương mặt Riddle. Hai người – một người đàn ông và một cậu bé – đứng chăm chú nhìn nhau một lúc. Rồi hai bàn tay rời nhau; thầy Dumbledore đi ra cửa.
“Tạm biệt nhé, Tom. Thầy sẽ gặp lại em ở trường Hogwarts.”
“Thầy nghĩ vậy là được rồi,” cụ Dumbledore tóc bạc bên cạnh Harry nói, và vài giây sau, hai thầy trò lại một lần nữa nhẹ tênh bay xuyên bóng tối, đáp xuống văn phòng hiện thời, đứng đối diện nhau.
“Ngồi xuống,” cụ Dumbledore nói khi đáp xuống bên cạnh Harry.
Harry vâng lời, đầu óc vẫn còn đầy ắp những hình ảnh nó vừa mới xem.
“Hắn tin điều đó nhanh hơn con - con nói là khi thầy bảo hắn là một pháp sư,” Harry nói. “Khi bác Hagrid nói với con, thoạt đầu con không tin.”
“Đúng vậy, Riddle hoàn toàn sẵn sàng tin rằng hắn “đặc biệt” như chữ hắn dùng,” cụ Dumbledore nói.
“Vậy thầy có biết...?” Harry hỏi.
“Lúc đó thầy có biết là thầy đã gặp pháp sư Hắc ám nguy hiểm nhất của mọi thời đại hay không à?” cụ Dumbledore nói. “Không. Thầy không hề biết sau này y sẽ lớn lên thành Chúa tể Hắc ám. Tuy nhiên, thầy chắc chắn có chú đến y. Thầy trở về trường Hogwarts với định sẽ để mắt tới cậu học trò này, dù gì đi chăng nữa thì đó cũng là điều thầy rất nên làm, bởi vì y cô độc, không bạn bè, nhưng điều này thầy cảm thấy nên làm vì lợi ích của những người khác nữa.
Năng lực của y, như con đã nghe, phát triển một cách đáng ngạc nhiên so với một pháp sư trẻ và – vừa thú vị vừa đáng sợ - y đã khám phá rằng y có cách điều khiển chúng và bắt đầu sử dụng chúng có thức. Và như con đã thấy, chúng không phải là những thí nghiệm tùy tiện hay gặp ở những pháp sư trẻ: y đã dùng Pháp thuật để chống lại người khác, để đe dọa, trừng phạt, hay để chế ngự. Những câu chuyện nhỏ về con thỏ bị treo trên xà ngang hay cô bé và cậu bé nọ bị dụ vô hang là cho thấy rõ nhất... Tôi có thể khiến họ đau đớn nếu tôi muốn...”
“Và hắn là kẻ hiểu Xà ngữ,” Harry nói chêm vô.
“Phải, quả thật: một năng lực hiếm thấy, và là một năng lực được coi là có liên hệ với Nghệ thuật hắc ám, mặc dù như chúng ta đều biết, trong số những người tốt và người vĩ đại cũng có nhiều người hiểu Xà ngữ. Thật ra, khả năng nói với rắn của y không làm cho thầy khó chịu bằng bản năng tàn ác, kín đáo, và thống trị rất hiển nhiên ở y.
Thời gian lại chơi khăm thầy trò ta nữa rồi,” cụ Dumbledore nói, vừa chỉ ra bầu trời tối thui bên ngoài cửa sổ. “Nhưng trước khi chúng ta tạm biệt nhau, thầy muốn lưu con một số đặc điểm của những cảnh mà chúng ta vừa chứng kiến, bởi vì những đặc điểm đó có nhiều nghĩa đối với những vấn đề mà chúng ta sẽ thảo luận trong những buổi học sau này.
Trước tiên, thầy hy vọng con có để phản ứng của Riddle khi thầy nói đến một người có cùng tên “Tom” với y.” Harry gật đầu.
“Qua đó y biểu lộ sự khinh miệt bất cứ cái gì khiến liên hệ với người khác, bất cứ cái gì làm cho y bình thường. Ngay cả khi ấy, y đã ao ước khác thường, xa cách, khét tiếng. Y thay đổi tên y, như con biết, trong vòng vài năm sau buổi nói chuyện đó và tạo ra cái mặt nạ “Chúa tể Voldermort” mà y đeo khá lâu.
Ta tin là con cũng để thấy Tom Riddle là kẻ rất tự phụ, bí ẩn, và rõ ràng là không có bạn bè? Y không cần giúp đỡ hay đồng hành trong chuyến đi đến Hẻm Xéo. Y thích hành động một mình. Gã Voldermort trưởng thành cũng y như vậy. Con sẽ nghe nhiều Tử thần thực tử tuyên bố rằng chúng là thân tín của y, rằng chỉ có mỗi mình chúng gần gũi với y, thậm chí hiểu y. Chúng chỉ nói dối. Chúa tể Voldermort không bao giờ có một người bạn, thầy cũng không tin y muốn có bạn bao giờ.
“Và cuối cùng – thầy hy vọng con không đến nỗi quá buồn ngủ mà không chú đến điều này, Harry à – Thằng bé Tom Riddle thích thu thập chiến tích. Con đã thấy cái hộp đựng những thứ đồ ăn cắp mà y giấu trong phòng. Những thứ đó đã được lấy từ những nạn nhân mà y đã bắt nạt, những kỷ vật, nếu con muốn gọi vậy, của những trò pháp thuật đặc biệt khó chịu. Hãy nhớ cái khuynh hướng giống chim ác là này, đặc biệt, sẽ quan trọng về sau này. Và bây giờ thì tới giờ đi ngủ thật rồi.”
Harry đứng dậy. Khi nó Khi nó đi ngang qua căn phòng, mắt nó lại nhìn lên cái bàn nhỏ nơi nó đã nhìn thấy chiếc nhẫn của Marvolo Gaunt lần trước, nhưng chiếc nhẫn không còn ở đó nữa.
“Gì đó, Harry?” cụ Dumbledore hỏi, vì thấy Harry bỗng nhiên đứng lại.
“Cái nhẫn biến mất rồi,” Harry nói, nhìn quanh quất. “Nhưng con nghĩ thầy có thể có cái kèm acmonia hay cái gì đó.”
Cụ Dumbledore nhướn mắt qua tròng kính hình nửa vầng trăng, cười toe toét với nó.
“Tinh ranh đấy, Harry à, nhưng cái kèn acmonia thì chỉ mãi là cái kèn acmonia.”
Và kèm theo chú thích bí ẩn đó, cụ vẫy tay chào Harry, nó tự hiểu là mình đã bị đuổi ra.